Đạo Hồi là quốc giáo của Malaysia và có số tín đồ đông đảo nhất trong dân số. Vị trí địa lý của Malaysia nằm trên tuyến đường hàng hải lịch sử chính giữa khu vực Ấn Độ, Ả Rập và châu Âu ở một phía và Trung Quốc, Nhật Bản ở phía khác, đã biến Malaysia thành điểm giao thoa của các nền văn hóa và tôn giáo trong hàng nghìn năm. Do đó, gần như tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt vô cùng lâu đời và đáng chú ý ở Malaysia ngày nay.
Tôn giáo cũng hiện diện rõ ràng hơn trong đời sống công cộng ở Malaysia so với hầu hết các quốc gia phương Tây nói tiếng Anh. Lịch sử tôn giáo phong phú được thể hiện rõ nét trong kiến trúc, và không hiếm khi tìm thấy các địa điểm thờ cúng khác nhau nằm gần kề nhau. Các ngày lễ tôn giáo, đặc biệt là những ngày lễ được tổ chức tại các không gian công cộng như Ramadan (Hồi giáo) và Diwali (Hindu giáo và Phật giáo), càng làm phong phú thêm các trải nghiệm tôn giáo của người dân.
Hồi giáo ở Malaysia:
Đạo Hồi du nhập vào khu vực Malaysia ngày nay từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, chủ yếu do các thương nhân Ả Rập và Ấn Độ truyền bá. Quá trình lan rộng của đạo Hồi diễn ra thông qua việc cải đạo các tù trưởng, người cai trị địa phương và sau đó là các thành viên khác trong cộng đồng, thay vì thông qua chiến tranh xâm lược. Từ khi thành lập Vương quốc Malacca vào thế kỷ 15, đạo Hồi đã trở thành tôn giáo chính thống tại đây và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những thế kỷ tiếp theo. Ngày nay, đạo Hồi là tôn giáo được theo dõi rộng rãi nhất tại Malaysia với hơn 61,3% dân số theo đạo này. Hầu hết tín đồ Hồi giáo ở Malaysia thuộc phe Sunni và theo trường phái tư tưởng và luật học Shafi’i.
Phật giáo ở Malaysia:
Cả Phật giáo và Ấn Độ giáo đều được du nhập vào Malaysia hơn hai thiên niên kỷ trước bởi các thương nhân Ấn Độ. Phật giáo cũng lan truyền đến miền bắc bán đảo Mã Lai từ Thái Lan. Trong nhiều thế kỷ sau đó, cả hai tôn giáo đều ảnh hưởng đến xã hội, nghệ thuật, văn hóa và chính trị Malaysia. Mặc dù Phật giáo đặc biệt hưng thịnh dưới thời Đế chế Srivijaya (thế kỷ 7-13), nhưng ảnh hưởng của tôn giáo này suy giảm với sự du nhập của đạo Hồi. Những người nhập cư từ Trung Quốc và Sri Lanka trong thời kỳ thuộc địa Anh đã mang lại sự hồi sinh của Phật giáo ở Malaysia vào cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Ngày nay, Phật giáo là tôn giáo được theo dõi nhiều thứ hai (19,8%).
Kitô giáo ở Malaysia:
Kitô giáo được du nhập vào quần đảo Malay đầu tiên bởi các thương nhân Kitô giáo Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ từ thế kỷ thứ 7. Công giáo được các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha du nhập vào thế kỷ 16, trong khi thực dân Hà Lan đưa Tin lành vào thế kỷ 17. Các hoạt động truyền giáo Tin lành từ các giáo phái khác nhau phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ thuộc địa Anh từ thế kỷ 19. Thế kỷ 20 chứng kiến sự ra đời của các nhà thờ phi giáo phái và Tin lành.
Ấn Độ giáo ở Malaysia:
Giống như Phật giáo, Ấn Độ giáo được thương nhân Ấn Độ thời kỳ đầu mang đến Malaysia hơn hai thiên niên kỷ trước. Mặc dù Ấn Độ giáo từng có ảnh hưởng đáng kể trên khắp Malaysia, nhưng ảnh hưởng này đã giảm sút với sự du nhập của đạo Hồi. Dân số theo đạo Hindu hiện tại của Malaysia (6,3%) chủ yếu là hậu duệ của những người di cư từ vùng Tamil Nadu ở Ấn Độ, những người đến làm việc tại các đồn điền cao su dưới thời Anh vào cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20. Một số lượng nhỏ hơn di cư từ miền bắc Ấn Độ. Do đó, phần lớn dân số theo đạo Hindu của Malaysia cũng tự nhận là người Ấn Độ gốc Malaysia.
Sikh giáo ở Malaysia:
Sikh giáo được du nhập vào Malaysia bởi người Ấn Độ, những người được đưa đến làm việc trong cảnh sát và lực lượng vũ trang trong thời kỳ thuộc địa Anh vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Mặc dù người Sikh có mặt trong nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng di sản về lòng dũng cảm này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay với nhiều người Sikh làm lính hoặc cảnh sát.
Các tín ngưỡng truyền thống Trung Quốc ở Malaysia:
Ở Malaysia hiện đại, 1,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Trung Quốc. Tuy nhiên, người dân thường không chỉ theo một tôn giáo truyền thống Trung Quốc duy nhất, phần lớn là do sự hòa trộn giữa Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Ví dụ, các vị thần Đạo giáo có thể được tìm thấy trong các chùa Phật giáo và ngược lại. Do đó, số người thực hành các triết lý truyền thống Trung Quốc có thể cao hơn. Nhiều người theo các tôn giáo truyền thống Trung Quốc có xu hướng là người Hoa Malaysia về mặt dân tộc
Tín Ngưỡng của Người Bản Địa ở Malaysia
Ngoài các tôn giáo lớn trên thế giới và các tôn giáo truyền thống Trung Quốc, Malaysia còn là nơi sinh sống của vô vàn các tín ngưỡng của người bản địa. Những hệ thống tín ngưỡng này được Orang Asli ở Tây Malaysia và một số nhóm dân tộc bản địa ở Sabah và Sarawak theo đuổi. Trong các cộng đồng này, tôn giáo theo truyền thống hoặc phong tục của họ thường được gọi là ‘agama adat’.
Các tín ngưỡng bản địa đa dạng ở Malaysia thường không có một cấu trúc tổ chức chính thức để quản lý các hoạt động, nghi lễ và giáo lý. Thay vào đó, những niềm tin cốt lõi, giá trị và thực hành nghi lễ được truyền qua các thế hệ thông qua truyền thống truyền miệng phức tạp.
Hình thức và cấu trúc của các truyền thống tôn giáo của người bản địa và địa phương khác nhau tùy thuộc vào sự đa dạng của các nhóm dân tộc ở Malaysia. Tuy nhiên, nhìn chung, họ có một khái niệm chung về một đấng tối cao hoặc thần thánh, cũng như một nhóm các vị thần khác. Môi trường và cảnh quan thiên nhiên cũng đóng vai trò nổi bật trong các kiến thức và tín ngưỡng của người bản địa Malaysia. Ví dụ, các nhóm và bộ tộc riêng lẻ thường có mối quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên và có thể coi các đặc điểm môi trường của cảnh quan là linh thiêng.
.